Việt Nam đang chuyển mình rất nhanh trên con đường hội nhập khu vực và quốc tế. Những biện pháp khuyến khích, chính sách ưu đãi của Nhà nước ngày càng thông thoáng đã và đang thu hút kiều bào trở về quê hương sinh sống, làm ăn.
NHỮNG TÍN HIỆU VUI
Theo thống kê của Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài (VNONN), tính đến tháng 8-2013 có 51/63 tỉnh, thành phố có các dự án đầu tư của người VNONN với hơn 3.600 doanh nghiệp kiều bào có số vốn đóng góp là 8,6 tỷ USD, phần lớn từ các nước như Mỹ, Canada, Úc, Nga, Pháp, Hà Lan, Séc... tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực thương mại, du lịch, xây dựng, bất động sản, sản xuất hàng xuất khẩu, nuôi trồng, chế biến, xuất khẩu thủy hải sản...
Năm 2013 có hơn 1 triệu lượt kiều bào nhập cảnh cảng hàng không Tân Sơn Nhất, tăng 10 lần so với năm 2004, trong đó 70% đăng ký lưu trú tại TPHCM; lượng kiều hối từ các nước trên thế giới gửi về cho người thân ở Việt Nam đạt 11 tỷ USD. Ngày càng nhiều doanh nhân là Việt kiều khẳng định tên tuổi của mình ngang tầm thế giới như doanh nhân Phạm Nhật Vượng, ông chủ của Tập đoàn Vingroup là tỷ phú USD đầu tiên của Việt Nam được xếp vào bảng tỷ phú thế giới; doanh nhân Johnathan Hạnh Nguyễn, Chủ tịch Công ty Liên Thái Bình Dương - Imexpan Pacific là doanh nghiệp đầu tiên về nước đầu tư mở đường bay chính thức giữa Việt Nam với Philippines...
Ông Nguyễn Thanh Sơn, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao - Chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài (hàng đầu, giữa), dẫn đầu đoàn đại biểu kiều bào tham dự chương trình lễ Giỗ Tổ Hùng Vương
CÒN NHIỀU TRỞ NGẠI
Đa số doanh nhân Việt kiều muốn quay trở về quê hương đầu tư, kinh doanh đều cho rằng chính sách thu hút nguồn lực của Nhà nước ta đã thông thoáng hơn trước rất nhiều nhưng để triển khai ở các địa phương thì họ còn vấp phải không ít khó khăn. Doanh nhân Hà Ngọc Minh Phong, một kiều bào ở Pháp về Việt Nam thành lập Công ty TNHH Viện Phát - chuyên sản xuất và kinh doanh trang phục phẫu thuật bằng vải không dệt dùng một lần. Để đạt được chất lượng quốc tế, Viện Phát đầu tư hệ thống thiết bị đạt hai tiêu chuẩn ISO 13485 và CE marking. Hiện tại đã có gần 60 bệnh viện lớn nhỏ trong cả nước chọn sử dụng sản phẩm tiệt trùng và dùng một lần của doanh nghiệp này.
Tuy nhiên, ông Minh Phong phàn nàn: “Ở Việt Nam môi trường kinh doanh còn mang nặng tính chỉ đạo của Nhà nước, bộ máy hành chính công hoạt động chưa đạt hiệu quả cao, các cơ quan hành chính công quyền vẫn còn gây nhiều trở ngại cho doanh nghiệp khi làm thủ tục”. Được biết sản phẩm của Viện Phát là loại sản phẩm đầu tiên được sản xuất tại Việt Nam, nguyên liệu nhập khẩu để gia công chưa nằm trong danh mục được giảm thuế trong khi một thành phẩm sử dụng nguyên liệu cùng loại nếu nhập khẩu lại được hưởng chế độ ưu tiên với mức thuế 0%. Viện Phát đã gửi công văn kiến nghị đến hải quan, Vụ trang thiết bị y tế, Bộ Tài chính... nhưng ba năm nay vẫn chưa được trả lời.
Cách đây mấy năm, ông Trần Văn Trường (Việt kiều Mỹ) về Đồng Tháp đầu tư mua 3,3ha đất cải tạo để nuôi cá tra xuất khẩu. Ròng rã sáu năm trời ông đã bỏ nhiều công sức tìm hiểu tình hình địa phương, các chính sách pháp luật cũng như tập quán sinh hoạt nơi đây. Tuy nhiên một số chính sách của địa phương còn chưa thông thoáng hoặc địa phương thực hiện không đúng, không đủ, thậm chí mâu thuẫn với các chính sách ưu đãi chung của Nhà nước làm ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Chẳng hạn phía công ty đã trình phương án kinh doanh tốt, có tài sản đảm bảo và hệ thống ao vuông đầu tư hoàn chỉnh nên được phía ngân hàng cam kết cho vay hàng chục tỷ đồng. Thế nhưng sau khi công ty mở rộng làm ăn thì ngân hàng chỉ giải ngân vài trăm triệu rồi kiên quyết không cho giãn nợ hay các biện pháp tín dụng khác để hỗ trợ doanh nghiệp. Trong khi đó nhiều doanh nghiệp khác tại địa phương kém triển vọng hơn lại được ưu ái cho vay liên tục nhiều kỳ với hạn mức hàng tỷ đồng. Thắc mắc ở đâu cũng không được hướng dẫn hay giải thích cụ thể, rõ ràng mà thường nhận được câu trả lời vì có yếu tố nước ngoài, ông Trường bức xúc: “Nếu chính sách có những biểu hiện bất minh, phân biệt đối xử thì làm sao thu hút đầu tư, khuyến khích doanh nghiệp Việt kiều?”.
Bà Nguyễn Trương Thị Lệ Sinh là một trong những kiều bào về Việt Nam từ thập niên 90 của thế kỷ trước. Với nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực thương mại và nhiều đầu mối quen biết ở nước ngoài, khi về nước bà Sinh trở thành một chuyên viên tư vấn, làm cầu nối cho việc xúc tiến thương mại và đầu tư giữa doanh nghiệp Việt Nam và nước ngoài.
Trải qua hàng chục dự án lớn nhỏ, bà Sinh đúc kết: Đa số kiều bào tập trung đầu tư vào những lĩnh vực mang lại lợi nhuận nhanh như bất động sản, dịch vụ, du lịch trong khi Việt Nam là một thị trường lớn với hơn 90 triệu dân, nguồn lực nhân công giá rẻ. Muốn thành công lâu dài, doanh nhân Việt kiều cần tận dụng những lợi thế trong nước, đầu tư vào lĩnh vực sản xuất và hệ thống phân phối sản phẩm. Quan trọng là Nhà nước cần có chính sách ưu đãi và tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa, môi trường đầu tư cần rõ ràng và bình đẳng hơn, giảm bớt thủ tục hành chính ở cấp cơ sở để tạo niềm tin cho giới đầu tư. Làm được như vậy sẽ thu hút thêm nhiều nguồn lực từ Việt kiều, tạo ra công ăn việc làm, tạo nguồn thu cho đất nước. Ngoài ra, doanh nhân Việt Nam ở nước ngoài có điều kiện lĩnh hội và đưa công nghệ tiên tiến về nước làm tăng thêm giá trị và hiệu quả sản xuất, phát huy lợi ích của kiều hối.
ĐĂNG KÝ QUỐC TỊCH - CẦN MỞ RỘNG CỬA
Những ngày này, vấn đề nóng đang được nhiều kiều bào quan tâm là thời hạn đăng ký quốc tịch Việt Nam sắp hết. Theo Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 và Nghị định số 78/NĐ-CP, đến ngày 1-7-2014 kiều bào ở nước ngoài sẽ hết hạn đăng ký là công dân Việt Nam. Như vậy, nếu luật không thay đổi, sẽ có hơn 3,4 triệu người Việt Nam ở nước ngoài mất quốc tịch Việt Nam đồng nghĩa với việc cơ hội trở về quê hương sinh sống và đầu tư làm ăn sẽ càng gặp khó khăn.
Một bộ hồ sơ xin nhập quốc tịch Việt Nam gồm có: đơn xin nhập quốc tịch Việt Nam và bản khai lý lịch theo mẫu của Bộ Tư pháp; bản sao giấy khai sinh hoặc giấy tờ khác có giá trị thay thế; phiếu xác nhận lý lịch tư pháp; giấy chứng nhận trình độ tiếng Việt; giấy xác nhận thời gian thường trú liên tục tại Việt Nam; giấy xác nhận về chỗ ở, việc làm, thu nhập hợp pháp hoặc tình trạng tài sản tại Việt Nam; bản cam kết từ bỏ quốc tịch nước ngoài (nếu có).
Luật quy định rõ như vậy nhưng để làm được hồ sơ đầy đủ và hợp lệ thật không dễ dàng. Bà Lệ Sinh chán nản, về nước gần 20 năm, tham gia hoạt động ở nhiều lĩnh vực nhưng do pháp luật Việt Nam thường xuyên thay đổi, thủ tục rườm rà, việc tiếp xúc với các cơ quan công quyền khó khăn nên bà phải nhờ dịch vụ làm thủ tục nhập quốc tịch với giá 5.000 USD, từ tháng 7-2013 đến nay vẫn chưa xong mặc dù hồ sơ của bà đã đầy đủ. Gian nan là thế nhưng “giấy xác nhận đăng ký quốc tịch” lại không có giá trị chứng minh quốc tịch Việt Nam, mà chỉ là hình thức đăng ký để “giữ chỗ” cho người Việt Nam ở nước ngoài không bị mất quốc tịch Việt Nam sau ngày 1-7-2014. Mặt khác, do quy định của pháp luật và điều kiện sinh sống ở một số nước, bà con Việt kiều lại cần giấy tờ của nước sở tại nên ngần ngại trong việc đăng ký xin giữ quốc tịch Việt Nam.
Bà Lê Thị Hải Vân - Câu lạc bộ doanh nhân Việt kiều tại TPHCM - tâm sự: “Kiều bào rất ngại đến các cơ quan hành chính Việt Nam vì hai lẽ. Một là ngôn ngữ chưa đồng nhất trong giao tiếp cộng thêm sự phân biệt “người nước ngoài”. Hai là nhiều địa phương, nhiều cơ quan không nhiệt tình hướng dẫn hoặc hướng dẫn không đầy đủ, không giải thích rõ cho bà con mình các thủ tục pháp lý. Từ tâm lý e ngại phiền hà rắc rối dẫn đến tình trạng thuê mướn dịch vụ giấy tờ khiến không ít người bị lừa gạt, có khi mất tiền mà không được việc. Bây giờ và sau này, bà con rất cần những kênh thông tin chính thống, hỗ trợ và tư vấn cho kiều bào, đặc biệt trong lĩnh vực thủ tục hành chính, hồ sơ pháp lý. Làm sao để người dân đến gần hơn với pháp luật, rút ngắn khoảng cách giữa cơ quan công quyền với người dân thì mọi khó khăn sẽ nhanh chóng được tháo gỡ”.
THU HIỀN (CATP) |