Cuối tuần rồi, giở Đại từ điển giáo khoa Séc-Việt, tập 4, tập cuối mà anh Ivo Vasiljev còn làm chung từ điển với anh Nguyễn Quyết Tiến, như kiểu bói Kiều tôi tìm đúng vần R, lại trúng vào mục từ (heslo) ramie (danh từ giống cái) <Mã Lai> (thực vật) Ramie sněhobílá - cây gai hay cây lá gai (danh pháp khoa học Boehmeria nivea), là loại cây bản địa của Đông Á, một nguồn nguyên liệu lấy sợi từ xa xưa tại nhiều vùng thuộc châu Á.Tại Việt Nam người ta hay dùng lá của nó làm bánh gai, bánh ít –ramiový (tính từ) - ramiové vlákno - sợi gai. Đúng là Đại từ điển giáo khoa có khác, hầu như thứ gì cũng có dù phải ngắn gọn.
Với nhiều người, bánh gai chẳng có gì xa lạ, chứ còn nghe cái tên bánh ít thì bây giờ tôi mới nghe. Mỗi lần từ Hà Nội đi Hải Phòng hay có dịp về Hải Dương, tôi hay tìm mua bánh gai và bánh đậu xanh để làm quà, các nhà xe thường dừng ở những điểm bán thứ quà quê này để cho khách mua. Bây giờ không chỉ có ở Hải Dương, hình như bánh gai còn được làm và bán ở các vùng khác như Nam Định, Ninh Bình nữa thì phải. Tìm hiểu qua về cây gai và quy cách làm bánh gai đã được nhiều tài liệu đăng tải nên tôi không dám múa rìu qua mắt thợ và chỉ đọc để hiểu kỹ hơn mà thôi.
Bánh gai là một loại bánh ngọt truyền thống của Việt Nam, bắt nguồn vùng Đồng bằng Bắc bộ ở Việt Nam. Bánh có dạng hình vuông, màu xanh đen màu của Lá Gai, mùi thơm đặc trưng của đỗ xanh và gạo nếp.
Một loại bánh tương tự, đặc sản của tỉnh Bình Định ở Nam Trung bộ là bánh ít lá gai, được gói bằng lá chuối tươi thành hình chóp như bánh ít.
Bánh gai về cơ bản gồm vỏ và nhân. Nguyên liệu thường dùng có lá gai, gạo nếp, đỗ xanh, mứt bí, thị mỡ tẩm đường, dầu chuối vali, đường kính, vừng.
Vỏ bánh gồm:
• bột gạo nếp (sau khi phơi khô, giã nhuyễn)
• lá cây gai (hay còn gọi là cây trữ ma - Boehmeria nivea thuộc họ Tầm ma/Gai (Urticaceae)) phơi khô và luộc kỹ, giã để lấy xác của lá trộn chung với bột để làm vỏ bánh. (Chắc phải chọn loại lá gai bánh tẻ, không già quá và cũng không non quá? NKV)
Nguyên liệu làm nhân bánh:
• mỡ lợn thái nhỏ, trộn đường đem ủ cho miếng mỡ trong mới dùng cùng với:
• tinh dầu thực vật như tinh dầu chuối v.v.
• dừa thái miếng nhỏ
• đỗ xanh nấu hoặc hấp chín, giã nhuyễn..
• bí đao thái miếng, bỏ vỏ và ruột. nấu chín bằng Đường Trắng
• hạt vừng. Rang chín
• hạt sen. Nấu chín bằng Đường
Sau khi đã chuẩn bị nhân và vỏ, gói bằng lá chuối khô, bánh hình hơi vuông và dẹt, sau đó hấp chín, khi bán cho khách, bánh gai được trang điểm thêm bằng các sợi lạt màu tím hồng ngoài vỏ chuối phơi khô màu nâu.
Thưởng thức
Bánh gai có thể được thưởng thức như đồ tráng miệng sau bữa ăn chính. Bánh có vị ngọt, bùi, thơm ngậy do nhân bánh mang lại và dẻo, mát nhờ vào vỏ bánh.
(trích từ vi.wikipedia)
Vì Đại từ điển giáo khoa Séc–Việt miêu tả quá cô đọng nên tôi thử tìm trong tiếng Séc có hay không? Và đây là một phần bài viết cũng rất cô đọng của cz.wikipedia, bánh gai chắc là điều lạ lẫm đối với họ:
Ramie sněhobílá (Boehmeria nivea) je tropická rostlina z čeledi kopřivovité. Je to řídce větvený keř dorůstající výšky až 1,5 metru. Listy se podobají listůmkopřivy a na rubu jsou bíle plstnaté. Rostlina pochází z Asie a pěstuje se pro lýkové vlákno. Nejstarší doklady o pěstování ramie pocházejí z Číny. Při vykopávkách v Hemudu (provincie Če-ťiang) byly nalezeny provazy z ramie a listy z této rostliny z období kolem roku 4000 před n.l. Sušené a na prášek rozdrcené listy ramie se používají v čínské a vietnamské kuchyni jako zdroj zeleného potravinářského barviva, tato přísada dodává zelenou barvu a lehce trávovou příchuť například vietnamskému moučníku bánh gai.(cz.wikipedia).
Hà Nội, đêm muộn 6 rạng 7.11.2020
NKV
|