THAY CHO LỜI DẪN CHUYỆN: " Anh Ivo đã đi xa gần một năm rồi. Nhiều khi trong lúc cặm cụi ngồi làm từ điển, mình vẫn nhớ giọng cười tiếng nói của anh ấy. Thật buồn. Mình định viết đôi chút về anh ấy, nhưng lại nghĩ chính việc biên soạn tiếp từ điển là cách nhớ về anh ấy tốt nhất. Có lẽ mình chỉ đăng "những ngày cuối cùng của anh Ivo" thôi. Rất cám ơn bạn có ý định đăng phần đã dịch trong tự truyện của anh Ivo, có lẽ nên viết thêm đôi lời dẫn chuyện”.
Đó là lời anh Nguyễn Quyết Tiến viết cho tôi, vì đã có lần anh muốn tôi chuyển ngữ cuốn tự truyện của anh Ivo: „ŽIVOT S VÍCE JAZYKY
JAZYKOVÁ AUTOBIOGRAFIE „
Ivo Vasiljev
sang tiếng Việt, nhưng tiếc là công việc này chưa thể hoàn tất, vì thế tôi chỉ trích một đoạn trong chương mở đầu tự sự của anh về cha mẹ và gia đình mình - như thể là một nén hương thơm cầu chúc cho linh hồn anh thanh thản. Ngày 23/10/2016 Ivo Vasiljev đã về cõi vĩnh hằng.
Ngô Khánh Vân
.................................................................................................................................
MẸ
Tôi sẽ bắt đầu kể về mẹ mình, đây xem ra có vẻ là cách thức hết sức bình thường. Còn ai khác ngoài người mẹ có thể tạo điều kiện nhiều nhất để cho đứa con mình phát triển? Trong trường này sự lựa chọn của tôi lại khác bởi những lý do thực sự sâu lắng.
Ông ngoại tôi, Bohumil Verich, sinh năm 1851 ở Turnov. Ông học nghề nấu bia và sau khi học xong thì ông làm ở xưởng bia ở Únětice cạnh Praha. Năm 1873 công nghiệp bia ở các vùng Séc rơi vào khủng hoảng. Không chỉ có thợ nấu bia phải chuyển sang đi tìm việc ở nước ngoài và nhiều người đã đi về phía đông, đến đế chế Nga hoàng. Giống như những người đàn ông có học khác ở Séc ông nói được cả tiếng Séc và tiếng Đức. Quyết định ra nước ngoài tìm việc đối với ông về phương diện ngôn ngữ chắc chắn không có gì khó khăn. Hơn nữa ông đã tìm được việc ở Riga là thủ đô của Litva ngày nay. Ở Riga không chỉ có người Litva và người Nga. Ở đó còn có cả cộng đồng đông đảo là người Đức Bantic. Ông đã tìm được cô dâu cho mình trong cộng đồng này, người trong nhà tôi nói bà có hai dòng máu Ba Lan và Thụy Điển. Về nguồn gốc Thụy Điển của cha bà có thể xác minh qua tên họ khai sinh Bekman. Rõ ràng tiếng Đức là tiếng mẹ đẻ của bà ngoại tôi. Mẹ đã lấy cuốn kinh thánh tiếng Đức của bà và cả đời mẹ thường xuyên đọc cuốn kinh thánh này.
Mẹ sinh năm 1899 và là con út. Ngươi chị lớn tuổi nhất lúc ấy đã trưởng thành. Gia đình trước đó đã chuyển chỗ ở từ Riga đến Kaunas của Litva, lúc ấy gọi là Kovn, mẹ đã được sinh ra ở đấy. Tất nhiên gia đình đã lâu không còn ở đó bởi vì ông ngoại đã nhận một chân thợ nấu bia ở Melitopol thuộc miền nam của Nga, ngày nay là đông nam Ukrajina. Mẹ kể rằng, các chị gái trên mình nói tiếng Litva với nhau mỗi khi không muốn mẹ hiểu các chị mình nói gì. Họ hàng của bà ngoại rõ ràng là gần gũi với người dân Litva. Mẹ kể rằng ở Riga đã thành lập chính phủ đầu tiên của quốc gia Litva độc lập, tất cả hay gần như tất cả các thành viên chính phủ đã tốt nghiệp một trường trung học, người họ hàng của bà ngoại đã dạy họ ở các trường này. Sau khi thành lập chính phủ, các thành viên của chính phủ đến thăm thầy cô cũ và họ cùng chụp ảnh kỷ niệm.
Trong gia đình bà ngoại mọi người đều nói tiếng Đức. Mẹ học tiếng Nga ở trường. Phần lớn những bạn gái cùng lớp của mẹ nghe nói đều có nguồn gốc Do thái. Người Do thái ở thời sa hoàng Nga không được phép chuyển chỗ ở đến bang đông bắc và đến các thành phố lớn, nên họ chỉ tập trung phần nhiều ở những thành phố nhỏ hơn ở miền nam Nga và vùng biên giới và những vùng đất có thời kỳ thuộc về đại công quốc Litva. Tôi chưa từng bao giờ được nghe đến ngôn ngữ trong gia đình của các bạn gái đồng học của mẹ tôi. Tôi chỉ biết là không xa vùng phụ cận Melitopol có các làng định cư của những tín đồ theo đạo tin lành Hà Lan, họ đã di cư đến đó sau năm 1789 từ Hà lan và từ Đức vì bị xua đuổi. Theo lệ ở đó, hai hoặc ba chị gái của mẹ đã tự cưới chồng. Ở gần Melitopol cũng có ngôi làng có tên Čechograd, cư dân của làng này nghe đâu được những người Nga ở đấy gọi là „Người Đức iz Čechograda“. Mẹ vẫn sống tiếp trong môi trường ít nhất dùng hai thứ ngôn ngữ. Còn ngôn ngữ thứ 3 ở đó có thể là ngôn ngữ Do thái - Âu. Nhưng không có chứng cớ nào cho thấy mẹ đã học tiếng Do thái - Âu khi nào.
Thực ra, việc một người nói bằng ngôn ngữ nào phần nhiều là do hoàn cảnh lịch sử. Ông ngoại sống không chỉ ở Séc mà còn đồng thời ở Áo-Uhersko. Với tư cách là công dân, ông không phải ngưới Séc mà là người Áo. Sự bùng nổ thế chiến thứ nhất đã vô tình làm nhiều người Séc ở nước ngoài nhận ra sự thật phũ phàng này. Ở Nga cũng như ở Pháp, do bị coi là dân của nước thù địch, họ là những người đầu tiên bị dồn vào các trại tập trung. Một trong những nhiệm vụ của cuộc kháng chiến ở hải ngoại của Séc (chỉ vài năm sau đã trở thành Tiệp Khắc) là từ đây tuyển được người Séc và đưa họ gia nhập quân đội đồng minh.
Hai người anh trai của mẹ trong thời kỳ đầu của quá trình này cũng phải đi. Một người sau chiến tranh đã sống ở Séc, lấy vợ người Séc trong một gia đình bình dân ở ngoại ô thành phố. Cả hai trở thành thành viên giáo hội cơ đốc Thụy Điển.Vì điều này mà sau này ông này đã chết trong trại tập trung của Đức quốc xã, còn bà vợ thì sống sót ở Ravensbruck, vào thời kỳ tôi đã lớn bà còn thỉnh toảng tới thăm chúng tôi, sau đó mẹ tôi - một tín đồ tin lành nghiêm khắc đã đặt ra điều kiện, rằng chỗ chúng tôi không bao giờ được nói về đức tin dù chỉ một lời. Bà cô này tất nhiên chỉ nói toàn tiếng Séc. Người anh thứ hai phục vụ trong quân đội Nga, là lái xe cho một đại công tước, tức là một thành viên của gia đình Sa hoàng và sau cách mạng cũng đã di cư ra nước ngoài.Ông lấy được một bà vợ người Thụy Sĩ giàu có và ông đã sống cùng bà cho đến lúc mất trong gia trại ở Thụy Sĩ.
Một chị gái của mẹ tôi cùng chồng tới Charbin ở Mandzusk thời ấy - ở đông bắc Trung Quốc, nơi có nhiều người Nga sinh sống. Chồng bà là bác sĩ nhãn khoa ở đấy. Vào những năm ba mươi ở đấy Nhật Bản đã dựng lên chế độ thân Nhật Mandzukuo. Hai con trai của họ đã sang Mỹ học. Một người trong chiến tranh thế giới thứ hai đã tham gia chiến đấu trên tàu ngầm chống Nhật. Một cô con gái của họ trở thành người Đức hải ngoại nhiệt thành và đã chuyển về Đức vào những năm 30. Cha mẹ của họ sau khi thành lập cộng hòa nhân dân Trung Hoa năm 1949 đã sang Mỹ theo các con trai.
Người chị thứ hai của mẹ sau chiến tranh thế giới thứ nhất đã cùng với gia đình sống ở Ba Lan, đâu như gần Pôznan. Năm 1945 từ đó chạy loạn như thể là người Đức trước tiên sang Đông Đức và rồi sau sang miền Tây, đến Bavorsko. Một cô cháu gái đã ở lại Ukrajina. Sau thế chiến thứ 2 cô chuyển đến sống ở Mukacev.
Lý do vì sao tôi lại mở rộng có phần rườm rà một chút là bởi vì họ hàng đông đúc này đã cùng tạo nên thế giới trẻ thơ của tôi. Mẹ tôi và các chị em gái luôn viết thư cho nhau bất kể thời kỳ và chế độ gì. Trong nhà chúng tôi có những bưu ảnh cây dứa ở Ha oai. Bưu ảnh cũ mầu rất đẹp. Vạn lý trường thành Trung Quốc có viết chữ mực nho lớn mà mãi sau này tôi mới học đọc được: Wan li čang čcheng - "Vạn lý trường thành“(phiên âm cách đọc tiếng Trung với nghĩa bức tường dài 10 ngàn dặm –ND). Như một người trẻ chơi tem tôi đã có những con tem của đất nước Mandzukuo và sau chiến tranh, thay vì tem từ Nga và Ba Lan còn có tem đến từ Transnistrie và Generálního Gouvernementu và muộn hơn chút ít từ Mỹ và cả hai miền nước Đức và sau đó lại có tem từ Liên bang Xô Viết.
Còn bây giờ tôi phải giải thích mẹ đã đến Tiệp khắc ra sao. Sau thế chiến thứ nhất và cuộc đại cách mạng tháng mười và chiến tranh vệ quốc, mẹ tôi là người duy nhất ở lại với cha mẹ già ở Melitopol. Đã sống sót qua nạn đói, có thể hai ba lần thậm chí tới tám lần thay đổi chính quyền thành phố trong có một năm, rồi đến việc xử tử những người chống đối, rồi nạn dịch thương hàn và vụ xử tử bất thành anh trai mình, ông này về sau đã tìm được sự tĩnh tâm ở gần giáo xứ cơ đốc Thụy Điển. Khi người dì mất đi ở Turnov, bà có hiệu kim hoàn, mẹ tôi là một trong số nhiều người thừa kế. Cũng vì điều này và những gì trước đó mẹ tôi đã từng trải, không lấy gì làm ngạc nhiên khi ông bà ngoại đã bắt mẹ nhận phần thừa kế của mình và sang định cư tại Tiệp Khắc. Khoảng độ hai, ba năm sau đó ông bà ngoại tôi đã qua đời tại Melitopol.
Trong hoàn cảnh ấy tôi không biết chính xác mẹ đã học tiếng Séc từ hồi còn ở Melitopol. Các giờ học tiếng Séc của mẹ nghe đâu do ông Cermak có thể đúng là ông Bohumil Cermak từ hội đồng hương ở Kiev thu xếp dạy cho. Nhưng vào khoảng năm 1922 mẹ tới Tiệp Khắc khi ấy có lẽ mẹ vẫn chưa biết nhiều tiếng Séc. Phải mãi tới khi vào học trường ngoại thương Praha mẹ mới học thì phải.Tại đây mẹ đã qua kỳ thi tiếng Anh của giáo sư Vilem Mathesi. Sau đó bà làm việc tại câu lạc bộ ô tô Séc tại Praha và lúc đó mẹ theo lớp tiếng Pháp kiểu tại chức. Vào khoảng giữa những năm 20, nhà tôi đặt mua tuần báo lớn của Pháp L‘Illustration có nhiều ảnh minh họa từ khắp nơi trên thế giới đến mức chiếm khá nhiều chỗ trong thư viện của bố mẹ. Mỗi khi trời mưa tôi thường ngồi xem nó hàng tiếng đồng hồ.
CHA
Ở trường đại học ngoại thương Praha mẹ đã quen với cha tôi. Là một học viên của trường quân sự sau cuộc chiến tranh vệ quốc thuộc những đơn vị còn lại của quân đội Wrangel, ông được đưa tới trại tập trung ở Thổ Nhĩ Kỳ. Thời ấy các nước chế độ dân chủ ở châu Âu đã tạo điều kiện cho những người còn trẻ tuổi có học bổng đại học. Trong số ấy thì Tiệp Khắc là một trong những nước đứng đầu. Ở Bratislava nghe đâu thậm chí còn mở cả trường đại học hay khoa luật cho ngưởi Nga, họ phải được đào tạo để quản lý nước Nga hậu cộng sản.
Tôi nghĩ, cha theo học tại trường này một thời gian không lâu. Trường này hình như với ông không đáng tin, ngay cả quyền lợi cũng chẳng hấp dẫn ông. Tôi không biết, vì điều này hay do cha ông ở Ôdesa vùng ven bờ biển Đen không xa Krưm là một quan tòa, hay là chính do ảnh hưởng từ kinh nghiệm.Vì những lý do ấy không lâu sau cha tôi chuyển vào học trường đại học ngoại thương ở Praha. Ở đó có một số người Nga cũng học và họ cũng có bạn gái Séc. Chẳng có gì lạ là mẹ tôi lại chơi thân với họ, chắc là họ làm mẹ nhớ tới quê hương. Năm 1925 cha mẹ tôi cưới nhau tại nhà thờ thánh Mikulas ở quảng trường thành cổ Praha.
CHA MẸ
Lúc đầu họ cùng nói tiếng Nga. Cha tuy có học tiếng Séc, có vốn từ vựng rất tốt, nhưng mỗi khi ông nói thì mọi người đều nhận ra ngay ông là người Nga. Cha tôi sinh ra trong một gia đình thuần Nga, một trong số bậc tiền bối đã bị thương trong trận đánh quân Na pô nê ông ở Slavkov. Ông sinh ra tại thành phố Jelisavetgrat ở Ukrajina, năm 1934 được đổi tên thành Kirovograd(bây giờ viết theo tiếng Ukrajina là Kirovohrad). Tôi không dám chắc ông biết tiếng Ukrajina ở mức độ nào, nhưng tôi biết là ông rất thích văn học ukrajina và thỉnh thoảng kể hay dạy chúng tôi hát bài hát quen thuộc Reve ta stohne Dnipr shyrokyy với lời của Taras Ševčenek.
Mẹ nói tiếng Séc tốt hơn cha nhiều dù bà có giọng pha nhẹ lạ, không phải Nga cũng chẳng ra Đức, song lắng nghe thì thấy rất rõ ràng. Ở nhà mẹ vẫn hòa hợp được với cha và bao giờ cũng cùng với ông và muộn hơn cùng tôi và em trai nói bằng tiếng Nga. Cha cũng thích đọc tiếng Pháp nhưng ông chẳng biết gì tiếng Anh, còn tiếng Đức thì ông chỉ biết bập bẹ (tôi chỉ nhận xét chung thế vì tôi chỉ nghe cha nói nhiều lắm vài từ hay một câu và cũng rất hiếm khi). Vì vậy cha hăng hái học tiếng Ý, cha còn theo những cua do Viện Ý ở Praha tổ chức và trong nhà chúng tôi có nhiều những quyển sách nhỏ tiếng Ý. Tôi nhớ rất rõ về quyển truyện có minh họa Pinocchi mà cha thường đọc hay tự dịch miệng cho chúng tôi nghe.
Mặc dù không còn nghi ngờ gì tiếng mẹ đẻ của mẹ là tiếng Đức, song ở nhà tôi không ai nói tiếng Đức dù chỉ một từ. Mẹ chỉ dùng tiếng Đức để trao đổi với các chị của mẹ, ở các buổi cầu nguyện và khi mẹ đọc kinh thánh. Kể từ năm 1935, lúc tôi được sinh ra, nhà chúng tôi sống ở Unhost, thị trấn nhỏ vùng trung Séc, dân ở đây toàn là người Séc. Mẹ rất coi trọng quyền công dân và dân tộc Séc của mình theo tên cha mình. Điều này đã tạo điều kiện cho một thực tế là nhờ quốc tịch Séc của bà mà cha tôi có được cái gọi là hộ chiếu quốc tế Nansen cấp cho người tị nạn được cư trú ở nước cộng hòa này. Cũng có một bộ phận người Séc lên tiếng phản đối chống lại „những kẻ ngoại bang đang hủy hoại chúng ta“. Những chuyện như thế tôi đã nghe quá đủ hồi trẻ con từ cha mình.
Mẹ cố giữ kín lòng tự hào dân tộc Séc còn phụ thuộc và liên quan đến quan hệ giữa người Séc và người Đức ở Tiệp Khắc vào những năm 30 đã xấu tồi tệ. Theo lập trường của bà và với sự cẩn trọng của con người từng chứng kiến nhiều lắm những vụ tàn sát vì sắc tộc, tôn giáo và chính trị đã dẫn tới việc bà không bao giờ thử dạy tôi và cậu em nhỏ hơn tôi một tuổi học tiếng Đức.
THỜI THƠ BÉ VỚI TIẾNG NGA VÀ TIẾNG SÉC
Chúng tôi ở riêng biệt cạnh bìa rừng cạnh quán bia mà cha làm kế toán ở đó. Mẹ đã phải nhờ một cô gái trông tôi có tên là Vilma. Cô đẩy xe nôi cho tôi còn sau đó thì là xe hai bánh. Tôi chỉ còn biết qua ảnh cô đứng cạnh tôi thôi, còn tôi khi đó đứng giữa hai cây bạch dương. Vilma chắc chắn là cô giáo dạy tiếng Séc đầu tiên của tôi. Trong khi ấy thì mẹ và cha dạy tôi tiếng Nga. Cha chơi cờ trong lúc rảnh rỗi với các đồng nghiệp và nói chuyện bằng tiếng Séc với họ ở quán bia.
Trong số những trải nghiệm mà tôi còn nhớ mãi có vài sự kiện dính dáng tới khẩu ngữ. Câu đầu tiên mà tôi vẫn còn nhớ được hồi tôi mới ba tuổi vào hè 1938. Tôi còn nhớ rằng chúng tôi chuyển chỗ ở vài ba lần trong thị trấn, và sự kiện gắn với ngôi nhà và con phố nơi chúng tôi ở vào mùa hè 1938. Lúc ấy chúng tôi chơi với những hình nộm lính Tiệp Khắc bằng cao su và ngày ngày ngồi trong cái hầm mát mẻ được khoét sâu vào đống cát trước cửa nhà. Đây là xe tăng của tôi. “Tôi vào xe tăng đây“ là câu nói luôn mồm của tôi sau ăn bữa sáng vào mùa hè nóng bức. Chắc chắn là lúc đó tôi nói tiếng Séc. Rõ là tôi đã dùng tiếng Séc nói với em trai ngay cả những lúc ở nhà. Những đứa trẻ song ngữ vẫn thường như thế. Chúng không không dùng ngôn ngữ của cha mẹ mà dùng ngôn ngữ của môi trường bên ngoài, ngôn ngữ của những đứa trẻ đơn ngữ. Từ những hồi tưởng ấy cho thấy rõ bầu không khí thời đó.
Trường hợp khẩu ngữ nữa mà tôi còn nhớ là thế này: cô gái lớn hơn cùng ở trong ngôi nhà nhỏ đó trèo lên cái thang, leo tới tận trần cái lều rồi xoay người lại, vỗ vào trán và nói: “Ta là con ngốc đây!“. Từ “Con ngốc“ này đã đã in sâu vào trí nhớ của tôi suốt cả cuộc đời. Tất cả những hoài niệm khác cũng không phải là ít của tôi đều không thuộc về khẩu ngữ. Có điều lạ là thời ấy những hồi tưởng khẩu ngữ tôi có quá ít. Thuộc về khẩu ngữ chắc chắn là các lời cầu nguyện mà tôi nói hàng ngày. Từ „Lạy Cha“ hiển nhiên tôi học muộn hơn về sau này. Lời cầu nguyện của trẻ con có từ “Kính Cha mang phúc lành cho con“. Tôi đã nghĩ mãi về câu tôi nói “nám ku zdaru“. Chúng tôi còn hát bài thánh ca“ Đêm yên lành, đêm thánh, ja – la mọi người được yên bình ...“. Đọng mãi trong tôi điều huyền bí, người ta làm gì khi „ja lá“.
Tôi thường bắt gặp mẹ đọc quyển thánh kinh tiếng Đức mà mẹ có được từ cha mẹ.Tôi không biết tôi hiểu được bà đến mức nào, có thể chỉ như quyển sách lớn với hàng chữ mạ bạc trên những cái bàn đen. Nhưng tôi hoàn toàn tin chắc rằng mẹ đã hát bài Đêm an lành, đêm thánh bằng tiếng mẹ đẻ: Stille Nacht, heilige Nacht. Nào ai biết được mẹ sẽ còn cay đắng nuối tiếc vì phải dấu kín hơn tiếng mẹ đẻ của mình cho đến bao giờ?
TRƯỜNG TIỂU HỌC, HỌC ĐỌC, NHỮNG QUYỂN SÁCH ĐẦU TIÊN VÀ TIẾNG ĐỨC
Tôi vào học lớp một trường tiểu học khi tôi sáu tuổi ba tháng, ngày 1 tháng 9 năm 1941. Trong đám bạn cùng học có Mojzis nhỏ bé, cậu con trai duy nhất mà tôi không còn gặp sau chiến tranh. Thời ấy chia thành trường cho con trai và trường cho con gái. Trường cho con gái ở ngay đối diện, bên cạnh là phòng tập thể dục, buổi tối để chiếu phim mà mãi sau này tôi mới nhớ ra. Đất nước chúng ta đã hai năm rưỡi bị phát xít Đức xâm lược, thế chiến thứ hai đã kéo dài hai năm, hai tháng trước đó Pari thất thủ và Pháp đã đầu hàng Hitle, nhưng tôi không nhớ là tôi lúc ấy có biết không. Hiện thời không có gì đặc biệt đụng chạm đến trường chúng tôi. Cách đây chưa lâu tôi có xem lưu trữ chứng nhận kết quả học và phân lớp của những trường lúc đó. Mực đã bôi đen tất cả những gì đề cập đến Tiệp Khắc, nhưng mà các tài liệu đã được in ấn và được điền bằng tiếng Séc. Đã xảy ra bước ngoặt sau nửa học kỳ năm học 1941-1942. Từ lúc đó tất cả thông tin trong học bạ và các tờ giấy của trường bắt đầu được viết bằng hai thứ tiếng, tiếng Đức viết trước tiên. Chính thời gian đó ông chủ nhiệm, theo luật bất thành văn lúc ấy, dạy học sinh lớp một bắt đầu dạy chúng tôi tiếng Đức. Ông dạy chúng tôi der Tisch (stůl = cái bàn) và der Sessel (židle=cái ghế, lúc đầu chúng tôi phát âm theo kiểu Áo „ s“ chứ không phải là „z“). Chắc chắn ông còn dạy chúng tôi những điều cơ bản nhất, nhưng đọng trong trí nhớ tôi chỉ còn hai từ này. Chúng ta hãy còn gặp lại những chuyện đại loại như thế. Ngoài ra chúng tôi cùng với bạn cùng lớp còn tự học những từ như „der, die, das – psí vocas“=đuôi chó“.
Tôi cũng chưa nhớ là vào tháng nào, khi chúng tôi ở Poupaty, lúc đó sách tập đọc cho lớp một tên gọi là gì, trong đó có bài Janek chăn cừu. Bài này trở nên có ý nghĩa đối với tôi bởi vì từ ấy tôi bắt đầu học tập đọc. Không phải vì tôi bổ sung vốn chữ cái hay là học ghép vần tốt hơn. Tôi học đọc cùng lúc vì tôi thích và tôi thấy rằng việc đọc cũng dễ thôi, tôi bắt đầu thích đọc.
Còn có chuyện như sau: trong giờ giải lao chúng tôi chơi trò đuổi bắt trong lớp. Không phải giữa các khe ghế băng mà là trên ghế được nối với các bàn nhỏ thành một dãy dài và có tấm đậy kéo ra đẩy vào được dùng để đậy bút viết và lọ mực. Khi có ai nhảy trên tấm gỗ này nó sẽ tự mở ra và dịch chuyển. Đang lúc trò chơi sôi nổi nhất, cửa bật mở và ông chủ nhiệm nhảy bổ vào và chỉ tay: „Em, em, em và em nữa - ở lại lớp sau khi tan học“. Trong số những học sinh bị tóm cổ lúc ấy có cả tôi. Sau buổi học ông chủ nhiệm giao bài tập đọc đã nói ở trên bắt chúng tôi lần lượt đọc liên tục hết người này đến người kia. Tôi không biết ông bắt chúng tôi phải đọc bao nhiêu lần.Tôi cũng không biết thời gian đã trôi đi bao lâu, cả tiếng hay chỉ nửa giờ đồng hồ, lúc ông cho chúng tôi về nhà và ra lệnh bắt chúng tôi về nhà phải đọc thêm năm lần nữa. Khi về tới nhà, tôi nhận ra ngay sau lần đọc lần thứ nhất là tôi thuộc lòng bài này. Trong bếp mẹ cùng bà Domkarova, một bà già tới nhà tôi là quần áo đang cúi nghiêng người với chiếc bàn là tên tấm là. Tôi đã đọc bài này cho bà nghe. Bà khen tôi. Và tôi lại hăng hái đọc tiếp.2
Đây chắc chắn chưa phải là lần đầu tôi đọc sách. Lúc ấy tôi đã trở thành người đọc còn trước đó tôi chỉ là người nghe. Tôi nhớ có lần phải nằm ở nhà vì bị ốm. Chắc lúc đó là ở tuổi chưa đi học. Mẹ đọc cho tôi một truyện dài hơn, truyện cổ tích thời hiện đại, vương quốc Ếch có lẽ in nhiều kỳ của tạp chí Lada. Đôi lúc hồi tưởng nảy ra trong tôi như thể trong mơ. Nhưng một lần khi đã lớn tôi đã phát hiện được trong thư mục của thư viện quốc gia có cuốn tạp chí này xuất bản ở Mlada Boleslav.
Tôi không nhớ chút nào về việc tôi đã học tiếng Nga vào lúc nào. Vào thời gian tôi vào học lớp một, trong nhà tôi đã có từ hai năm trước những quyển sách nhỏ tiếng Nga. Có thể đấy là những quyển sách đầu tiên của tôi. Vào năm 1939 ở Praha người ta đã mở cửa cửa hàng bán sách Nga, cha đã mua ở đó những cuốn bách khoa cho trẻ em, câu chuyện về chàng trai trẻ đã nhìn thấy gì trên con đường cùng mẹ tới Moskva và những nơi khác nữa. Quyển sách nhỏ có tên Čto ja viděl và anh hùng thiếu niên Počemučka, vì anh ta cứ luôn mồm hỏi počemu? Tại sao? Boris Žitkov đã viết quyển này. Các mẩu chuyện kể trong cuốn sách đã theo suốt tuổi thơ tôi. Ngày nay đây là ấn bản đã cổ và hiếm hoi. Tôi biết đọc tiếng Nga „từ lúc chưa biết nhớ“. Chỉ tới khi dạy chính con mình tôi mới quan tâm đến tiến trình tăng tiến nhận thức và tôi đã thực hiện truyền thụ những khái niệm và thói quen quan trọng „từ lúc chưa biết nhớ“ cấu thành những nguyên tắc quan trọng nhất, và cũng là những nguyên tắc giáo dục minh triết nhất.
Cha cũng như mẹ đã đọc trước cho chúng tôi quyển sách nhỏ về Počemučka (có lẽ đọc nhiều hơn quyển sách ra trước là quyển „Những điều chưa biết“). Quyển sách này có nhiều hình vẽ đen trắng minh họa và cha mẹ còn chỉ tay vào chúng để giảng giải. Tôi còn nhớ với ấn tượng từ các chữ viết như thế, như vần chữ cái hình con bọ dừa „ž“ và hình que cời lửa „č“. Nhưng nếu hỏi tôi học chữ cái trước chữ Latinh hay ngược lại thì tôi thật sự chẳng dám nói.
Vào thời gian ấy tôi cũng tốt nghiệp một khóa khác, bắt đầu bằng khẩu ngữ trên phố trước cổng nhà chúng tôi. Có lẽ một cô giáo tự xưng giảng cho chúng tôi về các bộ phận giúp phân biệt giữa con trai và con gái. Những tên gọi ấy thế nào tôi không còn nhớ, chỉ nhớ tới một câu: „Todle je poklop, ten maj všichni.“ Câu này có lẽ là câu đầu tiên và rồi cũng là câu cuối cùng vì những buổi học sau không còn nữa do bị cấm đoán. Còn nếu không thì tôi đã phải nhớ nhiều hơn, và còn những điều thú vị hơn. Tôi phải vội giở từ điển Séc lớn nhất để xem cái từ „poklop“ có bám bắt được ý nghĩa này không. Tôi phải nói thêm rằng, cô giáo của chúng tôi sinh ra trong gia đình thuần digan Séc mà ngày nay không còn tồn tại nữa, như Karel Hynek Mácha đã mô tả. Cha mẹ của cô từ mùa xuân cho tới mùa thu theo gánh xiếc và tới mùa đông thì trở lại cửa hàng của mình ở phố chúng tôi. Họ là người duy nhất có ngựa ở đấy.
Chúng tôi đã sống ở tầng trệt của biệt thự nhỏ do cha mẹ và những người họ hàng ở Praha xây nên, có hai người „dì“ và một „bác“ cùng với cha của họ, người bác này vốn là đại tá phục vụ trong quân đội Tiệp Khắc và không còn nghi ngờ gì ông đã từng là sĩ quan từ thời Áo - Hung. Nghe kể là vào năm 1919, ông đã cùng quân đội Tiệp Khắc bảo vệ biên giới chống Hung. Ông già mà tôi cho là cháu trai của ông ngoại đằng mẹ tôi, có chiếc ô tô tatra – hadimrška. Con trai ông thường đi cùng với ông . Trước chiến tranh „bác“ mang tới cho chúng tôi hộp dứa đồ hộp. Tôi còn nhớ điều này trong suốt thời gian chiến tranh. Thế là cái từ Séc „ananas“ chắc là tôi phải biết từ năm lên bốn tuổi.
Một trong các „dì“ kể trên có con trai bé hơn tôi một chút mà tôi cùng với nó trải nghiệm khẩu ngữ nữa, lần ấy là câu nói của tầng lớp Praha trung lưu: „Otíku, vem si fusekle a poď se nagáblovat!“. Những cậu bé làng quê chúng tôi tất nhiên rất ghét cách nói này và thói quen của trẻ con từ thành phố lớn. Nhưng chắc rằng trải nghiệm này của tôi xảy ra muộn hơn, phải sau năm 1945.
Mãi cho tới năm lên bảy tôi mới phát triển thành đứa trẻ song ngữ, không chỉ nói mà còn đọc được bằng 2 ngôn ngữ viết bằng hai thứ chữ cái khác nhau. Chắc chắn có đôi lúc tôi cũng bị nhầm với các chữ cái nhưng đến mức nào và vào khi nào thì tôi chẳng có căn cứ gì. Ngoài ra tôi còn biết đánh vần những từ và câu tiếng Pháp mà hầu hết tôi chẳng hiểu, cũng chẳng biết phải phát âm như thế nào cho đúng. Có thể cha mẹ đã dạy tôi những quy tắc cơ bản. Tôi nhớ về những thứ như “ou“ được đọc là „u“, còn chữ „s“ ở cuối các từ như „vous“, „nous“ sẽ không phải đọc và những điều tương tự thế. Không thể có chuyện cha mẹ không sửa cho tôi khi tôi hỏi họ một vài từ viết dưới các bức vẽ. Và tôi dám chắc là tôi biết phát âm đúng tên gọi của từ điển bách khoa toàn thư có giải nghĩa „Petit Larousse illustré“, mà tôi lấy từ tủ sách gia đình lúc xem những bức vẽ minh họa. Cũng còn rất nhiều quyển sách nhỏ Séc có giá trị dù cho được dịch từ tiếng nước ngoài mà cha mẹ chọn mua theo thẻ thành viên của ELKu (Câu lạc bộ văn học châu Âu).
Trong số tạp chí tuần san Pháp đã nói ở trên có những bức tranh thật lý thú. Nhiều bức vẽ về những con người thú vị: phi công Lindbergh bay qua Đại tây dương, phi thuyền bá tước Zeppelin trong chuyến bay và cả sau tai nạn, Bá tước và quân đội của ngài, Roald Amundsen và lời kể cuối cùng của ông đến xứ Arktida để bảo vệ những người sống sót sau vụ đắm phi thuyền Nobil, những tòa nhà chọc trời ở New York, những con ngựa vằn ở xứ á nhiệt đới, tháp Eifel, tượng Thần Tự do, những thác nước Niagar, những phụ chương in màu về những con bướm xứ nhiệt đới.
Ở đấy còn có cả những phụ chương in màu mà tôi chưa hề đả động tới. Mãi tới 20 năm sau tôi đã gặp tác giả của những bức ảnh này ở Hà Nội và mươi hay mười lăm năm sau nữa lại gặp con gái ông và con trai út của ông, từ năm 1963 là đồng nghiệp và muộn hơn là thành bạn thân đã giúp đỡ tổ chức cuộc triển lãm đầu tiên ở nước ngoài của một họa sĩ Việt Nam nổi tiếng ở Praha và Budapest. Để chuẩn bị cho cuộc triển lãm ở Praha, tôi đã mượn Thư viện quốc gia Praha cuốn niên giám Illustration từ năm 1932 cùng các bản sao của họa sĩ trẻ này đã triển lãm ở Pháp và sau đó ở tại quê nhà.
Bây giờ chúng ta hãy trở lại câu chuyện về những chú bướm. Sở thích về bướm là một trong số ít chuyện mà tôi biết về cuộc đời của ông nội người Nga của tôi. Cuốn sách về cuộc sống của loài bướm có chữ ký của ông đến giờ vẫn còn trong thư viện gia đình chúng tôi. Đây là cuốn sách mà tôi đã lật từng trang ra và đọc đi đọc lại hàng ngày. Cuốn sách được xuất bản trước cách mạng Nga, trong sách đó có những từ tiếng Nga và cả những chữ cái không còn thấy trong những bài viết mới hơn trong bách khoa toàn thư cho trẻ em như: chữ jat‘ và ba chữ nữa ít dùng hơn. Nhờ cuốn sách này tôi còn làm quen với các tên gọi la tinh: Papilio machaon, viết theo tiếng Nga „machaon“ và tiếng Séc bướm trắng vùng đầm lầy, Pieris brassicae, kapustnica, loài bướm trắng nhỏ, Vanessa urticae, krapivnica, loài bướm giáp, Sphinx ligustri, bướm trắng bay đêm, tiếng Nga sireněvyj bražnik. Tôi từng bước học làm quen với những cái tên gọi như thế và là việc thường xuyên hồi chín mười tuổi. Tác phẩm bốn tập của Brehem về cuộc sống của các loài động vật có trong thư viện gia đình lại chính là nguồn cung cấp thường xuyên kiến thức và những câu chuyện lí thú về thế giới động vật từ khắp nơi trên thế giới.
(2).Chuyện này tôi đã nhớ suốt đời. Lúc kể chuyện này cho người lớn, khá là thường xuyên của giai đoạn mà tôi bắt đầu quan tâm đến ngôn ngữ như ngôn ngữ học, tôi đã nói về bài văn Janek chăn cừu. Khi viết tự truyện này, tôi đã ghi sau cái tên Janek và những con cừu dấu hỏi trong ngoặc với lưu ý„xác minh“. Từ hồi nhỏ tôi chưa bao giờ nhìn thấy bài văn này. Khi sửa bài lần cuối tôi đã xem xét kỹ lưỡng các dấu hỏi này. Tôi mượn ở thư viện Poupata vào năm 2007 do nhà xuất bản Paseka Praha và Litomysl cuốn Vần vỡ lòng của các cụ. Sau khi lật các trang của tập vỡ lòng tôi có chút phân vân. Tôi đã không thấy nó giống với bất kể bài viết nào mà tôi còn nhớ được. Cuối cùng thì tôi đi đến kết luận là ở trang 26 và 27. Về Janek và các con cừu không thấy có đề cập nào hết. Bài viết ở dòng thứ 21 bắt đầu bằng các từ:: PAVEL PASE U LESA. PASE TAM I PEPA. Lòng tự tin của tôi đã bị suy giảm. Ngày thứ hai tôi quay lại với bài viết, tôi thử xác định xem trong đầu tôi thực ra còn nhớ gì về nó. Trước hết là độ lớn của chữ và ấn tượng về nó( bài viết được in bằng toàn khổ chữ lớn, mãi tới trang 52 chúng tôi mới thấy các cữ nhỏ ).Tiếp theo không còn nghi ngờ gì nữa là từ khóa pase trong câu tồn tại tới 3 lần ( trong đó có 1 lần ở dạng pasou ).Cuối cùng là các bức vẽ minh họa cho Poupata của Marie Fischerová-Kvěchová. Cậu bé với cây bút và chiếc mũ sau này rõ ràng.....với các bức tranh Janosik, tức là Janek. Chẳng thấy con cừu nào hết( không có mèo nhỏ và con bê nào) trong bài, bởi vì tác giả Josef Kožíšek thiết kế bài học để các học trò đi từ dễ đến khó. Ví dụ bài đầu tiên không có các hình vẽ thay thế các từ, ngoài các nguyên âm chỉ có 2 phụ âm là m và s( như trong câu ngắn quen biết MÁME MASO). Các đoạn trong bài chỉ có một vài các phụ âm trong số P,V,T,S,L,J,M,N. Các con cừu là do tôi tự nghĩ ra vì đáp ứng tốt nhất cho quan điểm của tôi về Janek. Điều duy nhất trải nghiệm thời ấy này còn lưu lại trong tôi chỉ là khả năng đọc trôi chảy và niềm yêu thích đọc sách!
|