Lần này là nói về ổi. Lên mạng tìm từ “ổi’ thì thấy chao ôi, bao nhiêu là chuyện. Nào là danh pháp khoa học: Psidium guajava, là loài cây ăn quả thường xanh lâu năm, thuộc họ Đào kim nương, có nguồn gốc từ Brasil, bộ phim “Mùa ổi” của Đặng Nhật Minh, những công dụng của ổi v.v và v.v. Tôi thì chỉ nhớ lại hồi trẻ con đi hái ổi mà bây giờ lớp trẻ không còn nhiều cơ hội như thế. Quê tôi ngày xưa nhiều vườn và vườn nào cũng trồng dăm ba gốc ổi. Ổi có nhiều loại - tôi không dám nói mình biết hết - đó là chuyện của các nhà thực vật học. Tôi chỉ còn nhớ chuyện này khi về quê thăm mẹ vào ngày cuối tuần. Bây giờ vườn tược ít đi nhiều, thay vào đó là những ngôi nhà gác khá đồ sộ và các ngõ xóm được bê tông hóa. Tre pheo cũng chẳng còn mấy, phố trong làng, ngay tôi cũng thấy lạ lắm huống chi là những người xa quê đã lâu nay mới có dịp về thăm.
Ổi chắc là có nhiều loại, nhưng ở quê tôi chỉ có vài loại, ổi đào, ổi mỡ, ổi găng, thế thôi. Ổi đào thì ruột mầu đào, thơm lắm, nhưng bọn trẻ con chúng tôi thích ổi mỡ và ổi găng hơn vì nó cũng ngọt và ruột thì trắng và tuy thơm không bằng nhưng nhai giòn. Ổi cũng có mùa, gọi theo cách trồng lúa - ổi mùa và ổi chiêm. Ổi mùa vào khoảng tháng sáu tháng bảy, còn ổi chiêm thì vào mùa đông xuân. Ổi mùa nhiều và sai quả hơn, còn ổi chiêm thì ít và không ngon bằng. Tôi vẫn nhớ bà nội dặn ”nhà có phúc đẻ con biết lội (bơi), nhà có tội đẻ con hay trèo”, để khuyên chúng tôi đừng có ham leo trèo mà có ngày sinh chuyện, ấy thế nhưng trèo hái ổi thì chúng tôi vẫn vẫn cứ làm vì ổi dẻo dai chứ không giòn dễ gẫy như cây khế, nếu chẳng may có chơn trượt thì túm lấy một cành to một chút thì vẫn “hạ cánh” an toàn.
Bây giờ có nhiều loại ổi, ổi trâu, ổi nghệ, ổi Thái bình, ổi Tàu…, ổi Nông nghiệp 2 (lai giống của Đại học nông nghiệp), nhiều lắm, nhưng tôi vẫn nhớ nhiều về những loại ổi xưa, quả không to lại có nhiều hạt nhưng hương vị thơm hơn nhiều, chỉ cần để vài quả ấy trong nhà là thấy thơm mùi ổi chứ không như những thứ bày bán hiện nay - quả thì to, ít hạt, nhưng chẳng thơm chút nào. Riêng tôi thấy thế, còn những người khác chọn lựa thế nào tôi đâu có biết.
Hồi còn ở Séc, tôi rất lạ vì có loại kẹo mang hương sắc của ổi đào - mùi thơm rất riêng không nhầm vào đâu được. Khi còn chân ướt chân ráo mới tới Praha, đại diện của bộ giáo dục là một bà giáo nói một câu làm tôi vẫn nhớ đến tận bây giờ ”Tuổi trẻ bao giờ cũng thích của ngọt, cô chúc các em ngon miệng” trong bữa tiệc ngọt. Chuyện về ổi sẽ không bao giờ dứt và tôi tự hỏi, không biết tiếng Séc gọi ổi là gì vì đã quên rồi nên đành phải hỏi anh Nguyễn Quyết Tiến - một bạn đồng trường và bây giờ đang làm bộ đại từ điển giáo khoa Séc-Việt cùng với Ivo Vasiljev và được trả lời:
“Này, chuyên gia, ổi tiếng Anh gọi là guava, thế còn tiếng Séc gọi là gì nhỉ? Ngày trước mình có biết nhưng bây giờ quên sạch rồi” Tôi hỏi.
“Kvajáva (và cũng gọi là guave). Mình có ghi chú ở ngoài vì quên không đưa vào tập 1.
Đó là quả ổi, còn cây ổi gọi là kvajáva hrušková”. Anh Tiến trả lời.
Thời gian - làm tôi quên quên và nhớ nhớ. Tôi nhớ đến mùa ổi vì bỗng dưng nhớ đến bài thơ “Quả Vườn ổi“ của nhà thơ Hoàng Cầm.
Quả Vườn Ổi (trong tập thơ Về Kinh Bắc)
“Em mười hai tuổi tìm theo Chị
Qua cầu bà Sấm, bến cô Mưa
Đi...
ngày tháng lụi
tìm không thấy
Giải yếm lòng trai mải phất cờ
Cách nhau ba bước vào vườn ổi
Chị xoạc cành ngang
Em gốc cây
- Xin chị một quả chín!
- Quả chín..
quá tầm tay
- Xin chị một quả ương
- Quả ương
chim khoét thủng
Lẽo đẽo Em đi vườn mai sau
Cúi nhặt chiều mưa dăm quả rụng”.
Trong tiếng Việt, từ “ổi ương” cũng rất hay, ngoài nghĩa đen là ổi chưa chín, khó ăn lắm vì chát, còn nghĩa bóng khi nói “đồ ổi ương” có nghĩa là cái thứ không thể nào chịu nổi, không thể nào chấp nhận được.
Hà Nội, 09/6/2017. NKV.
|