Nam nữ thanh niên Séc ngày càng ở với cha mẹ lâu hơn trước. Họ trì hoãn việc xây dựng gia đình tới tuổi ngày càng muộn hơn. Trong khi vào năm 1995, có 15,1 phần trăm nữ giới và 32,2 phần trăm nam giới ở độ tuổi 25 tới 29 sống với cha mẹ thì tới năm 2013, tỉ lệ này ở nữ giới tăng gấp 2 lần lên 31,1 phần trăm và ở nam giới là gần 50 phần trăm.
Số nữ giới sống độc thân trong độ tuổi này tăng 7 lần (lên 8 phần trăm), ở đàn ông là tăng 4 lần (lên 12 phần trăm).
Cũng tăng các cuộc hôn nhân với sự khác biệt tuổi tác lớn hơn giữa cô dâu và chú rể, và cả trường hợp cô dâu lớn tuổi hơn chú rể. Ngoài ra còn có sự gia tăng tỷ lệ hôn nhân mà người chồng ít học hơn vợ.
Việc rời khỏi nhà của con cái có 3 yếu tố: tăng tỉ lệ những người học đại học. Như vậy quá trình học tập kéo dài. Sự thay đổi giá trị trong xã hội, giữa các thế hệ con cái và cha mẹ không có va chạm và mâu thuân cơ bản. Tài chính đóng vai trò. Sống riêng tự lập sẽ tốn kém, thanh niên muốn tiêu tiền cho các chuyến du ngoại hay sở thích.
Tỉ lệ số người không muốn rời tổ ấm gia đình tăng ở hầu hết các nước châu Âu. Séc thuộc vào 4 nước mà có sự gia tăng mạnh nhất. Tình hình tương tự có ở Hungary, Bulgaria và Slovakia.
Trong xã hội Séc có sự trì hoãn sinh con đầu tiên.
Trong những năm 2009-2013, có 77,1 phụ nữ ở độ tuổi 35-39 sống trong gia đình đối tác và tỉ lệ sống chung không có kết hôn chỉ là 13,1 phần trăm. Ngược lại trong nhóm tuổi 20-24, gia đình đối tác chỉ có ở 19,5 phần trăm phụ nữ, trong số này 69,1 phần trăm trong gia đình không có hôn thú.
Sau cách mạng Nhung, tỉ lệ ly dị tăng mà nó phản ánh trong việc tăng số trẻ lớn lên chỉ với cha hoặc mẹ. Xu hướng này dừng vào năm 2008.
Trong năm 2013, 13,4 trẻ em tới15 tuổi lớn lên trong gia định thiếu cha hoặc mẹ.
Tuy nhiên tỉ lệ trẻ sống với chỉ cha hoặc mẹ ở Séc thấp hơn mức trung bình của EU. So với từng nước EU thì Séc có con số này tương tự như ở Đức hay Tây ban nha.
PL (tổng hợp) |